Hệ cơ sở dữ liệu (CSDL) có vai trò rất quan trọng đối với mọi hệ thống thông tin. Sự phát triển của công nghệ thông tin gắn liền với sự phát triển của công nghệ cơ sở dữ liệu. Lĩnh vực của quản trị cơ sở dữ liệu là một thế giới thu nhỏ của khoa học máy tính, nó liên quan đến một chuỗi những ngành khoa học như xử lý ngôn ngữ, ngôn ngữ lập trình, biên dịch, hệ điều hành, điều khiển tương tranh, cấu trúc dữ liệu, thuật toán, hệ thống phân tán và song song, giao diện người máy, hệ chuyên gia và trí tuệ nhân tạo, công nghệ thống kê…
Hệ CSDL đầu tiên được xây dựng theo mô hình phân cấp và mô hình mạng lưới, xuất hiện vào những năm 1960, được xem là thế hệ thứ nhất của các hệ CSDL. Trong năm 1970, Edgar Codd, thuộc phòng nghiên cứu của IBM ở San Jose đã đưa ra một mô hình biểu diễn dữ liệu mới gọi là mô hình dữ liệu quan hệ. Phát minh này đã mở ra một thời kỳ phát triển mới cho hệ thống cơ sở dữ liệu, những hệ quản trị CSDL (DBMS) xây dựng dựa trên mô hình này phát triển rất mạnh mẽ. Codd đã đạt được giải Turing về nghiên cứu này. Những lợi ích của nghiên cứu này được nhận thức rộng rãi và sử dụng các DBMS cho quản lý dữ liệu trở thành chuẩn mực. Đây có thể coi là thế hệ thứ hai của các hệ CSDL. Trong những năm 1980, mô hình quan hệ phát triển mạnh mẽ và hệ thống cơ sở dữ liệu tiếp tục được ứng dụng rộng rãi. Nó được chú ý ngay tức khắc vì được xây dựng dựa trên cơ sở toán học chặt chẽ, tính logic, độc lập dữ liệu cao và có cấu trúc điều khiển đơn giản. Vì vậy, các thao tác với CSDL được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả và dễ dàng. Thực tế đã cho thấy sự kết hợp giữa ngôn ngữ truy vấn có cấu trúc SQL (Structured Query Language) với CSDL quan hệ là một mô hình kết hợp lý tưởng và rất hiệu quả để xử lý thông tin. Chính vì thế, ngày nay hầu hết các tổ chức đều sử dụng mô hình CSDL quan hệ và dùng ngôn ngữ SQL để lưu trữ, xử lý dữ liệu.
Giáo trình Cơ sở dữ liệu 2
Danh mục: Sách giáo trình Từ khóa: cơ sở dữ liệu, công nghệ thông tin, nguyễn văn định